Lúc bấy giờ các loài hữu tình do dùng món ăn đoàn thực, cặn bã đọng lại trong người, vì muốn loại bỏ đi, nên thành ra đường và cuối cùng sinh ra nam căn nữ căn. Thế rồi sinh ra nhiễm trược, cho nên mới thân cận nhau, nhân đó mới gây ra những điều phi pháp. Các chúng sinh nhìn thấy chuyện mà bèn đua nhau ruồng bỏ như quét dọn đất đá không thèm ở chung với họ, đuổi họ ra khỏi đám đông. Xưa coi phân như đất nên liệng bỏ, thì cũng giống như ngày nay khi con cái lẩy chồng lầy vàng bạc vừng đậu mà đua nhau ném. Vì bị người thời đó xua đuổi, những kẻ thích làm điều ác, bèn cùng nhau tụ tập lại, xây dựng nhà cửa, che đậy bản thân mà làm điều phi pháp. Đó là những người đầu tiên xây dựng gia trạch, rồi có gia đình.
Thời bấy giờ hoặc sớm hoặc tối cứ đói lúc nào thì đi gặt lúa lúc đó, dùng đủ một ngày, không để dư thừa. Có một chúng sinh do tính lười nhác nên sáng đi gặt lúa, gặt luôn cả lúa cho bửa chiều. Đến chiều có một bè bạn đến gọi đi gặt lúa anh ta bèn bảo rằng: “Anh cứ đi gặt đi. Sáng nay tôi đi gặt lúa đã kiếm luôn lương thực cho cả hai bữa rồi”. Lúc đó người bạn này nghe nói thế thì khen thầm trong bụng rằng: “Cách này cũng rất tốt. Hôm nay ta đi gặt sẽ kiếm luôn lương thực cho cả hai ngày”. Thế rồi họ cứ như thế mà bắt chước nhau, gặt lúa cho hai ngày, ba ngày, bảy ngày thậm chí nửa tháng, một tháng mà đem về, dàn dần gấp bội số trước. Vì lòng tham đó ngày càng mạnh thêm, cho nên cuối cùng đã khiến cho lúa sinh ra cám bã cằn cỗi, gặt xong một làn không mọc lại nữa, mà có mọc lại cũng xấu dần.
Thế là mọi người lại tranh nhau mà hái lượm. Do thâm tâm tích tụ, cám bã cỏ rả ngày càng nhiều, lúa má không còn sức nữa, hái lượm đi rồi rễ không mọc lại. Nếu có chỗ nào còn sót lại, mọi người nhìn thấy bèn bảo nhau: “Chúng mình phải chia ranh giới ra mà gặt lấy”. Ai nấy đều chia. Nhân ý nghĩa đó mà điền địa thế gian bắt đầu được cày cấy và đặt ra bờ cõi. Bấy giờ có một chúng sinh tuy tự mình có ruộng song lại lén lút ăn trộm lúa của người khác, hai ba lần vẫn không chừa. Cuối cùng bị đẩy ra giữa đám đông để trình bày sự việc. Nhưng y lại ca cẩm nói: Chỉ vì thiếu lúa mà bị làm nhục tôi trước đám đông. Do duyên cớ đó nên đại chúng cùng họp bàn nhau rằng: “Không biết hai người đó ai là người có tội. Chúng ta có ý định chọn một trong chúng sinh trong đại chúng mà nhan sắc đoan chính, hình dung đầy đủ, trí tuệ không đạt, lập làm điền chủ để trừng phạt kẻ có lỗi, nuôi nấng kẻ vô tội. Ruộng nương mà chúng ta cày cấy, ai nấy đều phải theo đúng phép cứ sáu phần thì phải trích ra một phần để cho điền chủ”.
Bấy giờ trong đại chúng bèn chọn ra được một người có đủ đức độ bèn lập ra làm chúa đất. Chúa đất cứ theo đúng phép tắc mà trừng phạt, dưỡng dục dân chúng. Dân chúng lập ra chúa đất rồi, thì do nhân duyên đó mà thế gian có giống vua Sát Đê Lợi.
Bấy giờ có một chúng sinh nẩy ra ý nghĩ rằng: “Mọi thứ gia đình vạn vật ở thế gian đều là gai góc ung nhọt. Nay nên lìa bỏ vào núi hành đạo, ở yên tĩnh để mà suy ngẫm”. Thế là bèn vào núi ngồi nghiền ngẫm dưới gốc cây, ngày ngày ra khỏi núi vào thôn xin ăn, người trong thôn thấy thì kính trọng cúng dàng, mọi người đều cùng khen là thiện. Người đó bèn lìa bỏ sự trói buộc của gia đình vào núi cầu đạo. Vì người đó có khả năng lìa được các điều ác, các pháp bất thiện, giữ đạo ngay thẳng, luyện cho phẩm hạnh được trong sạch, nhân đó được gọi là Bà-La-Môn do đó mà thê’ gian có dòng giống Bà-La-Môn.
Trong chúng sinh lại còn có hạng người quen làm đủ các nghiệp thiện cư, trục lợi, để tự mưu sinh, nhân duyên đó mà thế gian có dòng giống Tì-xá (tức là hạng lái buôn).
Trong chúng sinh kia, lại có hạng dốc sức vào đồng ruộng, thạo mọi tạp nghệ để sinh sống, nhân đó mà thế gian có giống Thủ-Đà-La (tức là nông dân vậy).
Do các nhân duyên đó, cho nên có bốn chủng tính, Sát-Đế-Lợi là hơn cả, họ trường thọ và ở với nhau, tuổi thọ vô lượng, lúc tuổi thọ giảm đến mức tám vạn bốn ngàn tuổi thì người cao mười sáu trượng. Qua một trăm năm thì giảm một tuổi. Cứ như vậy giảm tới mười bốn tuổi thì chỉ cao một bước. Lại qua một trăm năm tăng thêm một tuổi. Cứ như vậy tăng tới bốn mươi tám ngàn tuổi, mỗi lần tăng giảm như vậy là một Tiểu kiếp, cộng là một ngàn sáu trăm tám mươi vạn năm. Tăng giảm hai mươi lần như vậy gọi là Trung kiếp. Tổng cộng là ba vạn ba ngàn sáu trăm vạn năm. Song tám kiếp đã qua, nay đã là kiếp thứ chín và là giảm kiếp: con người thọ khoảng bẩy mươi tuổi người cao bẩy thước (theo thước nhà Chu). Cứ như vậy trụ đủ hai mươi Tiểu kiếp thì tới Hoại kiếp. Thoạt đầu là hỏa tai, thứ đến là thủy tai, sau đến phong tai. Hủy hoại như vậy suốt trong hai mươi Tiểu kiếp thì tới Hoại kiếp, sơn hà đại địa, các núi Tu di, Thiết vi đều bị nát vụn rôi trống không (trống rỗng) suốt hai mươi Tiểu kiếp, mới lại bước vào Thanh kiếp, lại trải qua hai mươi kiếp mới được thành lập, một vòng như vậy sau khi kết thúc, vòng khác lại bắt đầu, cứ thế mà xoay vần đến vô cùng.
Chú thích: Cõi trời Quang Âm thiên tức là cõi Nhị thiền thiên trong Sắc giới. Người ta từ Phạm thiên mà xuống hạ giới, cho nên tiếng nói của họ là tiếng Phạm chữ viết của họ là chữ Phạm. Sau này người di chuyển theo đất, nên ngôn ngữ mỗi nơi mỗi khác, chỉ có nước Thiên Trúc là còn bảo tồn được.
Kinh Hiền Ngu và Kinh Báo Ân nói: “Thời Phật Ca Diếp quá khứ có một vị Tỷ khiêu trẻ thấy một vị Tỷ khiêu già thường thích tụng niệm, nhưng giọng lại khàn đục mà tự cho là mình tốt giọng mà bảo vị Tỷ khiêu già rằng “Giọng Ông như giọng chó sủa ấy”. Bấy giờ vị Tỷ khiêu già đáp: “Ngươi không biết ta ư: Ta nay đã đắc đạo A-la-hán rồi đấy” vị sư trẻ nghe xong hoảng sợ tự trách mình, liên sám hối ngay trước mặt, vị sư già chẳng bằng lòng trước sự ăn năn hối lỗi đó. Nhưng vị Tỷ khiêu trẻ kia dẫu khỏi bị đọa xuống địa ngục, song vì lời ác khẩu đó nên trong suốt trăm đời phải làm thân chó. Bẩy giờ có năm trăm lái buôn dắt một con chó trắng đi cùng sang nước khác. Giữa đường nghỉ chân, chó ăn vụng thịt bị các lái buôn chặt cả bốn chân đem vứt xuống hố rồi đi. Lúc đó ngài Xá Lợi Phất nhờ có thiên nhãn nên từ xa đã trông thây thân chó nằm co quắp dưới đất, đói khát rã rời, sắp chết đến nơi. Ngài liên cầm bát cơm bay liền đến chỗ chó, vời lòng từ mẫn bố thí cho chó ăn, cứu được mạng sổng thừa của chó. Chó ăn rồi mừng rỡ. Ngài Xá Lợi Phất lại thuyết pháp cho chó nghe. Bảy ngày sau chó chết, được thác sinh vào một gia đình Bà La Môn ở nước Xá Vệ và tên Quân Đê. Năm đó bảy tuổi (Quân Đề) được ngài Xá Lợi Phất hóa độ cho xuất gia, nhờ (biết) thuyết diệu Pháp nên chứng được quả A-la-hán. Quân Đê biết được đủ sáu phép thân thông, tự thấy tiền thân là một con chó đói nhờ thầy Xá Lợi Phật nay được làm thân người và được đạo quả, bèn tự tâm niệm rằng: sẽ đem hết thân mình ra để phụng sự Thầy, mãi mãi là Sa di không thụ Đại giới. Do kiếp trước đã từng xuất gia trì giữ tịnh giới, cho nên nay gặp Thích Ca Như Lai, hiển được chứng quả A La Hán.
Mùa An Cư kết hạ Giáp Ngọ